Tuesday, September 10, 2019

On the upcoming death anniversary of the RVN President - Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và công lao của một vị tướng.

Chánh quyền cộng sản Hà Nội đã cố tình tỏ ra thờ ơ, lạnh nhạt trước tin  Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu qua đời. Nguyên nhân then chốt dẫn đến sự  lạnh nhạt cố tình và thái độ thù nghịch của chánh quyền Hà Nội đối với Tổng thống Thiệu chính là do sự sáng suốt nhìn rõ bản chất biển lận của  cộng sản và lập trường chống cộng trước sau như một của Tổng thống  Nguyễn Văn Thiệu trong suốt những năm dài của cuộc chiến tranh VN.
Là một người Việt yêu nước, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã có thời đi theo Việt Minh với ước vọng phụng sự cho đất nước. Nhưng chỉ trong thời  gian ngắn, ông đã nhìn rõ bộ mặt tàn nhẫn của Việt Minh nên nhanh chóng  từ bỏ. Tổng thống Thiệu, dù ở bất cứ cấp bậc nào hay cương vị nào, ông cũng  không bao giờ chấp nhận thương thuyết, thỏa hiệp hay có bất cứ ảo tưởng  nào về cộng sản. Chính nhờ vậy, lập trường chống cộng 4 không, và câu  tuyên bố của ông đã trở thành chân lý.
Cho đến khi Mỹ bắt tay với cộng sản để thông qua Hiệp Định Ba Lê với  những điều khoản vô cùng phi lý, có nguy cơ bức tử VNCH, Tổng thống  Nguyễn Văn Thiệu là một trong những người Việt hiếm có nhìn rõ nguy cơ  đó và dám công khai chống lại Tổng thống Nixon và ngoại trưởng  Kissinger. Sau này, trước sự đe dọa Mỹ sẽ cắt viện trợ, trước thái độ Mỹ  sẵn sàng đơn phương ký kết hiệp định Ba Lê với CS Bắc Việt bất chấp sự  chống đối của VNCH, và trước những lời cam kết bảo vệ VNCH bằng mọi giá  được viết xuống trên giấy trắng mực đen của Tổng thống Nixon, Tổng thống  Nguyễn Văn Thiệu đành phải ký kết Hiệp Định Ba Lê.
Nhận thức được vai trò và khả năng vô cùng quan trọng của Tổng thống Thiệu sẽ là một cản trở to lớn đối với ý đồ thôn tính Miền Nam nên trong  những ngày cuối cùng của tháng 4/75, cộng sản Hà Nội đã tìm đủ trò tháu  cáy và tạo áp lực tối đa với Mỹ để loại trừ tổng thống Thiệu ra khỏi vị  thế quyền lực của chánh phủ VNCH. Hậu quả, với áp lực của Mỹ, với những  lời đe dọa "sẽ có đảo chánh giống như đảo chánh Ngô Đình Diệm" cộng thêm thái độ chủ hòa, bạc nhược, ảo tưởng hòa hợp hòa giải của một số tướng lãnh, chính khách. Tổng thống Thiệu không còn cách nào khác ngoài cách phải từ chức.
Sau khi tổng thống Thiệu từ chức, cả Mỹ lẫn CS Hà Nội, bằng mọi giá phải đẩy ông ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Có như vậy, những  toan tính thông đồng giữa Mỹ và CS mới có thể thực hiện, sự an toàn tối  đa cho sự triệt thoát của người Mỹ khỏi Việt Nam mới được bảo vệ, và  việc thôn tính Miền Nam qua vở tuồng hòa hợp hòa giải của CS mới có cơ  thành tựu. Đó là nguyên nhân khiến Tổng thống Thiệu bị buộc phải rời  khỏi VN cấp kỳ ngay sau khi ông từ chức. Trong khi đó, nhiều người VN,  cho đến hôm nay, vẫn cho rằng cuộc ra đi của ông là một sự trốn chạy,  một sự phản bội.
Thậm chí, chánh quyền CS Hà Nội, mặc dù đã biết rõ, tổng thống Nguyễn  Văn Thiệu khi rời VN không hề mang bất cứ tấn vàng nào của công qũy, và  tài sản riêng của ông cũng không hề có bất cứ tấn vàng nào như sự đồn  đại, nhưng trong suốt 26 năm qua, CS Hà Nội vẫn rêu rao dựng đứng tin  Tổng thống Thiệu ra đi mang theo 16 tấn vàng ông đã vơ vét.. Ngay cả hôm  nay, khi tổng thống Nguyễn Văn Thiệu nằm xuống, khi mà Phan Thúy Thanh,  phát ngôn viên ngoại giao CS Hà Nội leo lẻo tuyên bố "nghĩa tử là nghĩa  tận", thì trên báo Thanh Niên, báo Nhân Dân, và các cơ quan truyền thông  của CS, vẫn công nhiên lôi chuyện 16 tấn vàng để bôi nhọ tổng thống  Thiệu.
Đồng ý, trên một số phương diện, vì lý do nào đó, Tổng thống Nguyễn Văn  Thiệu đã không đáp ứng được sự kỳ vọng của những người Việt Nam yêu tự  do. Cụ thể, khi đất nước mất vào tay cộng sản, ông đã không có được cái  hào khí vị quốc tuẫn tiết như tướng Nam, tướng Hưng. Chứng kiến cảnh đất  nước tang thương dưới sự đô hộ của cộng sản, Tổng thống Thiệu cũng  không có được lòng dũng cảm, sự hy sinh, thái độ dấn thân để trở thành  một lãnh tụ kháng chiến theo đuổi con đường phục quốc, giải phóng quê  hương như tướng Hoàng Cơ Minh. Hơn nữa, suốt 25 năm sống tại hảo ngoại,  Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã chọn cho ông cuộc sống xa lánh thời thế,  cách biệt mọi nỗi đau buồn của dân tộc, của cộng đồng người Việt tỵ  nạn...
Tuy nhiên, trên nhiều phương diện, Tổng thống Nguyễn  Văn Thiệu là một người có công với đất nước, với dân tộc Việt Nam. Nhứt  là trong cương vị một quân nhân, một vị tướng, ông đã có những đóng góp  quan trọng trong việc xây dựng quân lực VNCH từ thuở còn trứng nước cho  đến khi trở thành một đội quân hùng mạnh, ngăn chặn làn sóng đỏ suốt 15  năm trời.
Trong tư cách một vị nguyên thủ quốc gia  suốt thời gian ngót 10 năm, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã đặt nền tảng  căn bản cho một chủ thuyết và một thái độ minh bạch không đội trời  chung đối với kẻ thù cộng sản. Sự sáng suốt và thái độ kiên quyết của  ông là một trong những yếu tố quan trọng giúp VNCH hóa giải được những  tư tưởng chủ hòa, những thành phần hòa hợp hòa giải, duy trì được sức  mạnh quốc gia, chống chọi được cộng sản.
Đặc biệt, trong mối quan hệ với đồng minh đầy quyền lực như Hoa Kỳ, tổng  thống Nguyễn Văn Thiệu đã duy trì một cách vừa khôn khéo vừa cương  quyết mối quan hệ ngoại giao để vừa bảo đảm sự hậu thuẫn liên tục của Mỹ  vừa bảo vệ được chủ quyền quốc gia và tư thế của một vị nguyên thủ.
Nhìn vào cục diện chiến tranh Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu xuyên  suốt thời gian nhiều thập niên, ta sẽ thấy Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu  là một trong những người đã có những đóng góp lớn lao trong công cuộc  bảo vệ VNCH. Đáng tiếc, cho đến tận hôm nay, khi ông vĩnh biệt trần thế,  xem ra chỉ có những người cộng sản, kẻ thù của ông mới âm thầm và hậm  hực đánh giá sức mạnh, tài năng và ý chí của ông một cách đúng đắn. Còn  phần đông chúng ta, vì lý do này hoặc lý do khác, đã không nhìn thấy hết  kích thước tài năng cùng những đóng góp của ông. Đau lòng hơn nữa, có  một số người do hạn chế trình độ, tầm nhìn và tư cách, đã dễ dàng bị  cộng sản tuyên truyền, hễ nói đến tổng thống Thiệu là khư khư cho rằng,  đất nước mất vào tay cộng sản là do tổng thống Thiệu, 16 tấn vàng không  cánh mà bay cũng do tổng thống Thiệu...
Phải chăng vì cả một phần lớn cuộc đời cống hiến cho  mục tiêu chống cộng bảo vệ quê hương nhưng bất thành, phải chăng vì bị  đồng minh phản bội, đồng bào hiểu lầm, nên trong những năm tháng lưu  vong, Tổng thống Thiệu đã sống trong cô đơn và cay đắng" Phải chăng vì  vậy, ngay cả những chiến hữu thân cận, từng vào sinh ra tử với ông, xem  ra cũng hiếm có người cùng ông chia xẻ ngọt bùi trong tình huynh đệ chi  binh cùng ông"
Bây giờ ông đã vĩnh viễn nằm xuống.  Sự ra đi của ông là sự ra đi của một vị tổng thống từng một thời oanh  liệt, hiển hách; của một vị tướng đã vào sinh ra tử bảo vệ sự tự do của  quê hương đất nước trước làn sóng đỏ. Vậy mà xem ra, đi tìm một sự xúc  động chân thành dành cho ông ở Việt Nam hay ở hải ngoại, là điều rất  khó. Phải chăng, đó là bi kịch chung của tất cả những người có công, có  lòng, nhưng đã mất quyền, mất thế" Phương Dung

Friday, September 24, 2010

Wednesday, December 30, 2009

Tuesday, October 27, 2009

Sổ Tay Chủ Nhiệm Việt Herald Bùi Bích Hà / Viết Về Bài Viết Kẻ Phản Bội của Lữ Giang - Tú Gàn - Cựu Thẩm Phán Nguyễn Cần



Nhìn lại các nhân vật lịch sử
Bùi Bích Hà
Nhìn lại các nhân vật lịch sử là một việc làm bình thường trong những xã hội tự do, xuất phát từ một động cơ phức tạp, bao gồm lòng yêu nước, sự băn khoăn về những câu hỏi chưa có lời giải đáp thỏa đáng về một hay nhiều biến cố xảy ra vào một thời điểm nào đó, căn cứ trên sự diễn dịch tài liệu lịch sử dưới lăng kính lý tưởng với ít nhiều chủ quan của người muốn nhìn lại, được tích lũy và tôi luyện qua thời gian. Ðây là định nghĩa tích cực nhất nhưng cũng có những cách nhìn thiếu công chính, được dẫn dắt bởi tư kiến mà khi đặt vấn đề, người viết tin vào nhận định của mình dựa trên sự đồng thuận của một số người cùng quan điểm.


Mục Phiếm luận trên nhật báo Việt Herald ngày 13 tháng 10 năm 2009, có khởi đăng một bài ba kỳ, nhan đề Kẻ Phản Bội, tác giả Lữ Giang, nhằm chỉ đích danh cố Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu của nền đệ nhị cọng hòa miền nam Việt Nam.

Phần mở đầu bài viết với văn phong thô bạo, trích dẫn lời phát biểu bất xứng của vị nguyên thủ quốc gia Hoa Kỳ lúc đó là đồng minh của Việt Nam trong cuộc chiến chống cọng sản, đã gây xúc động và bất bình cho độc giả, khiến bài viết không còn mang tính xét lại lịch sử một cách trung thực mà là bản cáo trạng dành cho một người đã qua đời, không còn tiếng nói để biện minh, làm sáng tỏ sự việc.

Ðể tôn trọng sự công chính cần có khi đánh giá các nhân vật lịch sử, thiết nghĩ có 2 vấn đề cần nêu ra xung quanh bài viết của tác giả Lữ Giang:

1.- Ðịnh nghĩa thế nào là Kẻ Phản Bội? Ðịnh nghĩa này có ứng dụng cho trường hợp cố Tổng Thống VNCH Nguyễn văn Thiệu hay không?

2.- Kẻ phản bội, trong cách nhìn của tác giả Lữ Giang, đã phản bội cái gì, phản bội ai?

Phản bội nghĩa là bỏ lời hứa, nuốt lời thề, quay lưng lại đất nước, bạn bè, đồng chí, người tình...chối bỏ những cam kết đã làm.
Nếu định nghĩa như thế, kẻ phản bội đưa đến việc mất miền Nam VN, kéo theo những hậu quả thảm khốc mà người dân miền Nam phải gánh chịu, chính là ông đồng minh siêu cường của cả cái miền Nam bất hạnh của chúng ta chứ không phải ông Thiệu.
Trong hoàn cảnh “bị hy sinh” của ông Thiệu ngày ấy, ai dám vỗ ngực sẽ làm hay hơn ông Thiệu? Hay là tác giả muốn nói ông Thiệu đã phản bội cụ Diệm khi tham gia chiến dịch đảo chánh vì ông từng được cụ Diệm tin cậy, sủng ái và cất nhắc mà bây giờ thân chinh đem quân về vây khốn dinh Ðộc Lập? Một dân tộc nhược tiểu luôn có nhiều nỗi oan khiên. Học sử Việt Nam, chắc không ai quên chuyện Trọng Thủy/Mỵ Châu. Tục ngữ nước ta có câu “hùm dữ không nỡ ăn thịt con,” nhưng lịch sử ca ngợi vua An Dương Vương xuống gươm xử con gái tội chết vì cô xem trọng tình riêng hơn nợ nước.

Cuối thế kỷ 20, nền đạo lý hủ nho cổ xúy nguyên tắc “trung thần bất sự nhị quân” hay “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung,” đồng hóa người lãnh đạo tối cao với tổ quốc và quyền lợi của dân tộc, đã cáo chung.
Năm 1954, do sự sắp đặt của các thế lực ngoại bang, chí sĩ Ngô Ðình Diệm về nước chấp chánh vai trò thủ tướng dưới chính thể quốc trưởng Bảo Ðại rồi lật ngược thế cờ, thiết lập nền đệ nhất cộng hòa, trở thành vị tổng thống đầu tiên của Việt Nam qua môït cuộc bầu cử với nhiều bất lợi cho cựu hoàng Bảo Ðại. Tầng lớp dân chúng cao niên trong đó có phụ thân kẻ viết bài này, còn chịu ảnh hưởng nho học sâu đậm, cảm thấy ngậm ngùi, chua chát, với ý nghĩ quân vương bị phản bội.
Tuy nhiên, thực tế sau đó cho thấy, chính trường mở màn với kịch bản mới viết cho Việt Nam. Người Mỹ thay tay người Pháp cầøm chịch ở phía nam vỹ tuyến 17 và thông qua công cuộc giúp ổn định đời sống cho hơn một triệu người miền bắc lìa bỏ quê hương, di cư để lánh nạn cọng sản, chính phủ của cụ Diệm đã chứng tỏ một cách hùng hồn chân lý trong câu luận về thế sự “thế Chiến quốc, thế Xuân thu, thời thế thế, thế thời phải thế.”Nếu chuyện đời ví như một sân khấu (tạo hóa gây chi cuộc hí trường- bà huyện Thanh Quan,) mỗi nhân vật mang cân đai áo mão có một thời xuất hiện để đảm đương một vai trò rồi biến mất khi tấm màn nhung buông xuống, thì cụ Diệm hay ông Thiệu là những diễn viên được số phận tuyển chọn cho tấn bi kịch hai hồi, hai màn, trải dài hơn hai thập niên máu lệ đau thương, hết do mẫu quốc Pháp lại do siêu cường Mỹ đạo diễn.
Cả hai đều ý thức sâu xa về vị thế của họ trong bàn tay bọc nhung của ngoại nhân, hứa hẹn nhiều bất trắc và tủi hổ, đã cố gắng mỗi người một cách, vừa đu giây với tinh, vừa lo công việc bảo quốc, an dân và xây dựng tiềm năng đất nước trong khả năng của mỗi vị. Ðau đớn thay, dù vùng vẫy cách nào, cả hai đều chịu chung một kết cuộc: bị loại bỏ không nương tay, người này không đáp ứng hướng dẫn của đạo diễn muốn thay đổi vở tuồng, người kia khi đạo diễn cần chém vè, đóng cửa, rút cầu, bỏ ngang trò chơi.Sự thực liïch sử nay đã phơi bày tỏ tường. Giờ đây, quan niệm cụ Diệm phản bội Quốc Trưởng Bảo Ðại, ông Thiệu (và hội đồng tướng lãnh) phản bội cụ Diệm, là vẫn chưa nhận chân thật rõ bản lai diện mục của “bộ máy đầu não” phản bội đáng sợ, vận hành với một quyền lực vĩ đại, không phục vụ nhu cầu nào khác hơn quyền lợi của cái đất nước mà nó được sản sinh và đại diện.Giả dụ có tạm chấp nhận quan niệm mang ít nhiều cảm tính do những liên hệ ân tình khắc ghi nói trên, cả cụ Diệm lẫn ông Thiệu, khi thời cuộc đưa đẩy họ vào vai diễn, họ biết phải chấp nhận trả giá bằng chính sinh mạng của họ, thậm chí, của cả thân nhân, gia đình họ. Quyết tâm dũng cảm ấy khi tổ quốc đòi hỏi, dù không xoay chuyển được thời cơ, cũng rất đáng ngưỡng mộ.
May mắn lắm nhưng cũng cay đắng lắm, ông Thiệu thoát đi, thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Phần đời còn lại, như hổ mất rừng, ông sống những tháng ngày mất quê hương, anh em, chiến hữu, chịu đựng tai tiếng, gậm nhấm căm hờn và phiền muộn không cách nào tỏ lộ.Có một số thuộc cấp của ông Thiệu, cho rằng ông đã cư xử bất xứng khi ra đi, bỏ lại anh em, đồng đội sau này bị thế lực mới đầy đọa, sát hại. Họ cũng đặt câu hỏi thẳng thừng: “Sao ông không tuẫn tiết như năm vị tướng anh hùng, chiến hữu của ông, ít nhất để bảo toàn danh dự của tướng khi thành rơi vào tay giặc?” Triết gia Jean Paul Sartre có nói:
“Être c’est être en situation,”
con người luôn gắn liền với hoàn cảnh trong đó nó hiện diện.

Xét một người, không thể tách người đó ra khỏi hoàn cảnh của họ vì như thế sẽ đưa đến những phán đoán có tính giả tưởng. Trong biến cố 30/4/75, chúng ta có 5 vị tướng tuẫn tiết, không hàng giặc và chỉ lìa bỏ thuộc cấp bằng cái chết. Toàn dân ngưỡng mộ. Thế giới ngưỡng mộ. Kẻ thù ngưỡng mộ. Thế nhưng, với tiết tháo cương cường đó, với nhân cách vĩ đại đó, nếu như các vị không lựa chọn cái chết, hẳn là khối người Việt di tản đã có được những lãnh đạo xuất sắc và đã có một bộ mặt khác.
Thương tiếc người chết làm đẹp những trang sử mười phần, thương tiếc sự sống quý giá bị mất đi muôn vạn phần.
Qua những biến động lịch sử cuối thế kỷ 20 kết thúc bằng việc mất miền Nam, bài học Lê Chiêu Thống cầu viện bắc phương được nhắc lại, tô đậm thêm, dạy cho một dân tộc nhược tiểu biết con đường duy nhất để thoát ra khỏi thân phận là tinh thần tự lập, tự cường, tạo nên sức mạnh tập thể.
Sức mạnh ấy không bao giờ hình thành nếu không có nền tảng căn bản là sự đoàn kết. Tổ tiên người Việt chúng ta để lại không biết bao bài học giá trị về đoàn kết, từ câu chuyện bó đũa trong Quốc Văn giáo khoa thư đến di sản ca dao tục ngữ

Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại thành hòn núi cao;
Khôn ngoan đối đáp người ngoài, gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau...

Ðể thực hiện đoàn kết, mỗi cá nhân cần ý thức mình chỉ là một hạt cát trong cả bãi cát, một viên gạch nhỏ nhoi trong triệu triệu viên gạch xây lên bức tường kiên cố và to lớn, cần thiết và có ý nghĩa khi hiện diện bên những viên gạch khác, ngoài ra, sẽ vô dụng khi lăn lóc một mình. Ðoàn kết là đem cái chung nhập vào cái riêng, đem tự ngã nhập vào đại ngã, trong đó, mỗi thành viên phản chiếu nhau mà cùng sáng chói. Khiêm nhượng, trung thực, trách nhiệm, kỷ luật, thương yêu và tôn trọng nhau là những yếu tố xi măng hàn gắn đoàn kết. Người viết tự hỏi có khi nào các nhà hoạt động cộng đồng hiện nay, trong cái tổ quốc VN nhỏ bé, lưu vong bên ngoài lãnh thổ, thành khẩn nhìn lại mình, xét xem đáp ứng được bao nhiêu những tiêu chuẩn công dân kể trên? Hay là vì hơn ba thập niên qua, chúng ta không có lãnh tụ nên khoảng trống này nuôi lớn tham vọng trong mỗi người? Hay là vì lần đầu tiên được sống, được nếm trải TỰ DO trong một xã hội thực sự tự do nên chúng ta lầm tưởng muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì làm, kể cả nói và làm những điều gây thương tổn cho người khác? Chúng ta quen chỉ tay vào người bên cạnh thì làm sao thấy khuyết điểm của mình mà sửa? Có phải nỗi thất vọng triền miên vì bế tắc, trong buổi chiều tà, làm nảy sinh tâm lý bực dọc, căm phẫn, khiến nhìn đâu cũng thấy những bộ mặt đáng ghét, đáng lãnh nhận búa rìu về mỗi mỗi lỗi lầm, hoặc bé xé ra to, làm cho lớn lên hoặc ngay cả bị gán ghép?Chao ôi, vì bất cứ lý do gì, không loại bỏ lý do có cả bàn tay phá hoại của nghị quyết 36 của cọng sản, nếu người Việt hải ngoại giờ đây vẫn không nhận ra hiện tượng cộng đồng thiếu đoàn kết chính là thất bại đau đớn nhất của tất cả chúng ta trên trận tuyến chống cộng sản, nhân danh những giá trị cao quý nhất đời người thì, rõ ràng, chúng ta đã thua kẻ thù một nước cờ nữa mà lần này, làm gì còn đồng minh phản bội, cũng làm gì còn cụ Diệm hay ông Thiệu để trút tội lên đầu họ?

Trở lại bài “Kẻ Phản Bội” của Lữ Giang, khi đặt vấn đề đánh giá một nhân vật lịch sử mà tiên quyết đã gán ngay cho nhân vật ấy một cái nhãn hiệu là sai ngay từ con chữ đầu tiên. Nếu tác giả không nhằm đánh giá lại mà nhằm hạch tội thì lại càng sai hơn nữa vì, thứ nhất, bị cáo không có mặt để lên tiếng; thứ hai, thay vì tập hợp tài liệu, phân tách nghiêm chỉnh, rút ra một kết luận khách quan và công chính để đóng góp kinh nghiệm ứng xử cho người sau thì dùng ngôn từ bất xứng, do cảm tiùnh xô đẩy để gây thêm ngộ nhận, miệt thị một tổng thống, một tổng tư lệnh quân đội của đất nước mà tác giả từng sống và làm việc với tư cách một công chức cao cấp trong chính phủ do tổng thống ấy lãnh đạo, người viết tin chắc rằng ngoài Lữ Giang ra, trên địa cầu này khó có người thứ hai, kể cả trong khối cọng sản mà phía quốc gia thường cho là thấp kém, bất nhân, ăn cháo đá bát.

Cho nên, tự do luôn đi kèm với đạo đức và trách nhiệm. Nói cái gì, nói như thế nào hay nói cho sướng miệng, bộc lộ đạo đức và trách nhiệm của người nói. Có nghe không, nghe như thế nào hay nghe cho thỏa ý riêng, bộc lộ phong cách, trình độ của người nghe và đây chính là nguồn gốc giúp định hình một nền tự do ngôn luận có phẩm chất.

Bùi Bích Hà
24/10/09


Monday, October 12, 2009

Viết Về Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu / Nguyễn Kỳ Phong

Húy Nhật lần thứ 8 / Southern California U.S.A.

Nguyễn Kỳ Phong
Vài Ý Nghĩ về Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu

Sau khi Việt Nam Cộng Hòa thất thủ, vai trò của cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu (TTT) như một nguyên thủ lãnh đạo quốc gia được đem ra phê phán. Vài ý kiến cho rằng vì TTT quá tin vào người Mỹ nên miền Nam rơi vào tay cộng sản. Về vai trò lãnh đạo, một số ý kiến nói tại TTT độc tài, nắm giữ hết quyền điều binh khiển tướng, chỉ huy quân đội thẳng từ dinh Ðộc Lập, nên gây ra nhiều sự bất mãn cho các cấp tướng lãnh trong những năm sau cùng của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Hai phê phán về TTT ở trên có lý do và giá trị để được luận bàn. Dựa vào một số tài liệu của Hoa Kỳ viết về TTT đã được giãi mật trong thời gian qua, bài viết ngắn dưới đây ghi lại một số sự kiện về liên hệ cá nhân của TTT với người Mỹ; và, về đường lối quản trị quốc gia của TTT như một nhà lãnh đạo.


Liên Hệ Cá Nhân Với Hoa Kỳ


Tổng Thống Thiệu có quá tin người Mỹ không? Căn cứ vào những hồ sơ được giãi mật, TTT chẳng những không tin người Mỹ, trái lại lúc nào ông cũng nghi ngờ và lo sợ về đường lối của Hoa Kỳ đối với Việt Nam ; và đối với ông như người lãnh đạo quốc gia. Từ khi bắt đầu giao thiệp, TTT đã có thái độ e dè, nếu không nói là bất thiện cảm đối với người Mỹï. Trong một báo cáo tóm lược về cá nhân TTT do Nha Tình Báo Quốc Phòng (Defense Intelligence Agency/ DIA) viết vào tháng 7-1968, họ nhận xét ông Thiệu là người chống cộng (anti-communist) nhưng đồng thời cũng “chống Mỹ.” Nguyên văn trong báo cáo là, “… Thieu is anti-United States.” Câu đó cũng có thể hiểu là “không thích Hoa Kỳ" hơn là theo nghĩa thông thường “chống Mỹ.” (xem phóng ảnh tài liệu 3-1) Cũng trong báo cáo đó, DIA cho biết thái độ chống Hoa Kỳ của ông Thiệu đã được ghi nhận từ tháng 2-1964, và chính ông Thiệu cũng tự nhận thái độ của ông đối với người Mỹ. Trong báo cáo tháng 7-1968, sau khi nói về thái độ của Tổng Thống Thiệu trước đó (trước báo cáo tháng 7-1968), người báo cáo viết, hiện tại ông Thiệu chú trọng đến sự phối hợp sát cánh đường lối của Hoa Kỳ và Việt Nam, để Hoa Kỳ tiếp tục hỗ trợ miền Nam.

So với những báo cáo khác, báo cáo của tháng 7-1968 nói tốt, nhưng chỉ nói một cách tổng quát về TTT. Nhưng qua tất cả những tài liệu phân tích về tâm tính TTT mà người viết này đã đọc qua, người viết có thể nói Hoa Kỳ không hiểu nhiều về ông Thiệu: phần lớn họ chỉ đoán về ông, dựa vào báo cáo của những cộng sự viên hoặc bạn đồng ngũ trong quá khứ. Báo cáo đến từ CIA, DIA, và Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn, xử dụng nhiều tỉnh từ như khôn vặt, cáo già, mưu mô, cunning, intelligent, shrew, efficient ... để tả cá tính TTT. Nhưng sau cùng, báo cáo vẫn kết luận họ không đoán được suy nghĩ và hành động của ông Thiệu, hay có thể gây ảnh hưởng với ông như họ đã làm với những thẩm quyền Việt Nam khác. Ngược lại, trong một vài lần mặt đối mặt với nhiều thẩm quyền Hoa Kỳ, TTT bỏ đi cá tính thông thường của ông — cá tính thông thường là sự dè dặt khi được hỏi ý kiến, và nghe nhiều hơn nói — và đặt nhiều câu hỏi khiến cho người đối diện rất lúng túng. Qua những lần như vậy, giới hữu trách Mỹ thấy ông Thiệu biết nhiều chuyện họ làm nhưng ông làm như không biết. Dựa vào những tài liệu đã trích, chúng ta thấy cố TTT không hoàn toàn tin vào người Mỹ trong suốt sự nghiệp chính trị của. Ông chỉ dựa vào người Mỹ để đạt được những mục đích ông muốn. Và một trong những mục đích ông muốn thấy, là sự trường tồn của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Nếu TTT có tin vào người Mỹ, thì ông không còn chọn lựa nào hơn là phải tin — và người duy nhất ông phải tin là cố Tổng Thống Richard M. Nixon.

Theo một sử gia của cơ quan CIA viết trong CIA and the Generals: Covert Support to Military Government in South Vietnam, Hoa Kỳ chỉ thật sự tìm hiểu và cố gắng bắt liên lạc với TTT từ tháng 7-1967, sau khi một số tướng lãnh quan trọng trong Hội Ðồng Quân Lực đồng ý cho ông Thiệu ra tranh cử tổng thống và ông Nguyễn Cao Kỳ, phó tổng thống, trong liên danh quân đội duy nhất vào cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên của nền Ðệ Nhị Cộng Hòa. Những báo cáo của DIA, CIA, và của Ðại Sứ Ellsworth Bunker gởi về Hoa Thịnh Ðốn cho thấy tin tức tình báo Mỹ có thể biết nhiều về ông Kỳ, hay những thẩm quyền VNCH khác, nhưng họ hoàn toàn không biết gì về ông Thiệu — hay ý định của ông Thiệu trong tương lai xa, gần. Một thí dụ khác về sự hiểu biết của người Mỹ về cá nhân ông Thiệu: Trong buổi thuyết trình cho Tổng Thống John F. Kennedy ngày 28 tháng 8-1963, khi nói về hai phe ủng hộ và chống Tổng Thống Diệm, Ðại Tá Nguyễn Văn Thiệu được ghi nhận là "người Công Giáo, ủng hộ ông Ngô Ðình Nhu," và đang có thái độ ủng hộ chánh phủ của Tổng Thống Diệm Một báo cáo khác đến từ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ (dĩ nhiên tin tức đến từ Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn) đề ngày 30 tháng 10-1963 — hai ngày trước khi đảo chánh — trong đó vẫn ghi thái độ của chỉ huy trưởng Sư Ðoàn 5 Bộ Binh (Ðại Tá Thiệu) “vẫn chưa xác định được.” Ðiều này cho thấy sự kín đáo của ông Thiệu về thái độ đối với mọi người chung quanh. Căn cứ vào sử liệu sau ngày đảo chánh 1 tháng 11-1963, chúng ta biết chắc chắn ông Thiệu đã đòi hỏi, hay được hứa hẹn, khi tình nguyện tham gia đảo chánh. Vì nếu ông Thiệu không đòi hỏi được tưởng thưởng xứng đáng thì ông đã không tình nguyện dùng đơn vị của ông tấn công các điểm kháng cự ở dinh tổng thống.

Dưới mắt một số người Mỹ, TTT là một người dè dặt, cẩn thận và kín đáo. Dưới mắt một số người khác thì TTT có tánh bài ngoại (xenophobia) ; và sự ngờ vực về người Mỹ đã làm cho ông luôn luôn lo sợ một cách vô lý (paranoia) (những từ xenophobia, paranoia là nguyên văn trong bản báo cáo). Sự nghi ngờ của TTT về đường lối và chủ đích của Hoa Kỳ ở Việt Nam không phải không có lý do. Từ sau cuộc đảo chánh Tổng Thống Diệm 1963 cho đến khi ông Thiệu trở thành tổng thống, ông Thiệu chứng kiến nhiều kế hoạch bí mật mà người Mỹ đã xử dụng để khuynh đảo nội tình Việt Nam. Những kế hoạch "kín" của CIA nói riêng, và của đường lối của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ nói chung, không nhất thiết phù hợp với đường lối của chánh phủ VNCH. Trong cương vị Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia, từ năm 1967 TTT đã chứng kiến áp lực của Hoa Kỳ khi họ quyết định "xé lẽ" và liên lạc riêng với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN). Với lý do là họ muốn xâm nhập nhân sự bên trong cơ cấu MTGPMN, người Mỹ yêu cầu thẩm quyền VNCH thả một số nhân sự quan trọng của MTGPMN mà VNCH đang cầm tù. Thẩm quyền Hoa Kỳ lần lược làm áp lực với tướng Nguyễn Ngọc Loan, tướng Kỳ, và tướng Thiệu cho đến khi chánh phủ VNCH thoả mãn một phần đề nghị của họ.

Sau khi Ðại Tướng Nguyễn Khánh bị lưu đày ra khỏi nước vào tháng 2-1965, Hoa Thịnh Ðốn và phần lớn các thẩm quyền Mỹ ở Việt Nam đều ủng hộ Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ như một nhà lãnh đạo thay thế tướng Nguyễn Khánh. Nhưng người Mỹ bị ngỡ ngàng và bối rối sau khi Hội Ðồng Quân Lực chấp thuận liên danh tổng thống-phó tổng thống, Nguyễn Văn Thiệu-Nguyễn Cao Kỳ trong năm bầu cử 1967. Biến cố này làm người Mỹ sửng sốt vì khi nhóm ông Kỳ đồng ý để cho ông Thiệu làm tổng thống là chuyện không thể xảy ra — hay ít ra là người Mỹ đã không tiên đoán được điều đó. (Xem phóng ảnh 4-1. Ý kiến của tướng Loan khi ông Kỳ chịu đứng vai phó tổng thống là, ông Kỳ đã điên nên mới làm như vậy.).

Sau khi ông Thiệu trở thành tổng thống, người Mỹ dồn mọi liên lạc, xâm nhập, để tìm hiểu thêm về ông Thiệu. Nhưng tài liệu của CIA tự thú là họ thất bại. Khi không tìm được liên lạc để biết thêm về cá tính và đường lối suy nghĩ của TTT, CIA không còn cách nào khác hơn là phải xử dụng phương tiện bất chánh: nghe lén và thâu thập tin tức bằng phương tiện điện tử. Ðúng như vậy, trong tài liệu giãi mật mới nhất, CIA thú nhận trên giấy trắng mực đen là họ đã dùng phương tiện nghe lén để tìm hiểu, tiên đoán về ý định của TTT. Từ giữa năm 1968 trở đi, CIA xử dụng phương tiện nghe lén nhiều hơn khi TTT hoàn toàn củng cố thế lực và thay đổi hầu hết phe phái của ông Kỳ trong quân đội. Trước đó, tài liệu CIA cho biết họ thâu thập tin tức về nhân sự và đường lối của VNCH qua một số cộng sự viên và tướng lãnh chung quanh ông Kỳ. Nhưng từ tháng 6-1968 trở đi, sau khi một số sĩ quan thân cận với tướng Kỳ bị tử thương trong vụ bắn lầm ở Chợ Lớn; và khi ông Kỳ bị gởi qua Paris vào đầu năm 1969 để làm quan sát viên chánh phủ trong cuộc hòa đàm, CIA mất đi tất cả những liên lạc họ đang có để thâu thập tin tức về VNCH.

Không xâm nhập và gây ảnh hưởng được thẳng với ông Thiệu, CIA quay sang gây ảnh hưởng với hai cộng sự viên tin cẩn nhất của TTT: Trung Tướng Ðặng Văn Quang và Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm. CIA cho biết, đôi khi thẩm quyền Mỹ không thuyết phục được TTT, nhưng khi họ dùng ông Khiêm và tướng Quang “chuyển lời” thuyết phục, thì TTT lại nghe theo. “Dùng liên lạc từ tướng Quang để gây ảnh hưởng với TTT là phương thức hiệu quả nhất,” tài liệu CIA nhận xét như vậy. TTT biết CIA thâu âm và nghe lén bên trong Dinh Ðộc Lập. Ông cũng biết một số nhân viên chung quanh ông làm liên lạc viên cho CIA. Nhưng ông yên lặng, làm như không quan tâm. Trong thực tế, ông lợi dụng những phương tiện đó để “chuyển lời” lại với thẩm quyền Mỹ ý nghĩ thật của ông — và đôi khi ý nghĩ giaû dối để đánh lừa người Mỹ. CIA đi đến kết luận này vì qua nhiều trường hợp, ông Thiệu đã không giữ được sự tức giận và nói thẳng với thẩm quyền Mỹ những gì ông biết về hoạt động sau lưng của họ. ông đã nó thẳng với CIA là chẳng những họ đã dung túng, chứa chấp Thượng Tọa Thích Trí Quang trong khuôn viên tòa đại sứ, họ còn cung cấp ngân khoảng tài chánh, để cho thượng tọa huấn luyện thêm tín đồ đối lập với chánh phủ VNCH. Và sau hai lần bị áp lực thả tù nhân cao cấp của MTGPMN, ông Thiệu chua chát nói với người Mỹ, “Ðất nước này [VNCH] không tiến lên được, vì một đằng là sự xâm nhập của cộng sản Bắc Việt; đằng kia là sự xâm nhập của CIA vào cơ cấu chánh phủ [VNCH].” .

Về sự liên lạc bí mật của Mỹ với MTGPMN, ông Thiệu nói, “không chừng tòa đại sứ đang chứa chấp Việt Cộng mà tôi cũng không biết.” Thẩm quyền CIA rất lo ngại về những quan sát “quá đúng” của TTT. CIA lo ngại đến độ Trưởng Vụ Viễn Ðông của CIA, William E. Nelson, phải viết một báo cáo cho Giám Ðốc CIA, Richard Helms, khuyến cáo nhân viên của cơ quan nên cẩn thận với TTT. Vì một mai nếu có chuyện bất hòa giữa Hoa Kỳ và VNCH xảy ra — hay giữa TTT và CIA — TTT có thể tiết lộ tất cả chuyện làm của CIA cho công luận biết. Năm 1968 và 1969 là hai năm mà TTT và CIA/ chánh phủ Mỹ có nhiều va chạm. Chánh phủ Lyndon Johnson rất bực tức khi biết TTT đang ngấm ngầm ủng hộ ứng cử viên Richard Nixon qua trung gian bà Anna Chennault. Ngược lại, cũng từ affair đó, TTT được Ðại Sứ Bùi Diễm thông báo là Hoa Kỳ đã nghe lén hầu hết những đối thọai giữa các thẩm quyền VNCH, ở trong cũng như ngoài nước. Tài liệu CIA cũng cho biết trong hơn hai tháng cuối năm 1968 đầu năm 1969, TTT tự cắt đứt liên lạc với thẩm quyền Hoa Kỳ vì những lý do kể trên.

Năm 1969 liên hệ bất thân thiện giữa CIA và TTT gia tăng khi TTT ra lệnh truy tố Dân Biểu Trần Ngọc Châu ra tòa về tội liên lạc với cộng sản. Ông Trần Ngọc Châu không xa lạ gì với CIA Mỹ trong những năm 1965-67. Ông được sự cảm phục của CIA cho đến khi họ bị TTT trói tay. Khi còn là Tỉnh Trưởng Kiến Hòa, ông Châu là người phát họa ra kế hoạch Hệ Thống Khiếu Nại Xã Ấp (Hamlet Census-Grievance System) để áp dụng song song với Chương Trình Xây Dựng Nông Thôn.

Hệ thống khiếu nại xã ấp cho phép người dân vừa thông báo với chánh quyền về những cán bộ Việt Cộng thâu thuế địa phương, đồng thời người dân cũng có thể khai báo cho thẩm quyền về những hành vi lạm dụng, mại quyền của viên chức chánh phủ xã ấp. Kiến Hòa cũng là nơi đầu tiên ông Châu cho phép CIA thành lập các toán tình báo-bán quân sự Thám Sát Tỉnh PRU (Provincial Reconnaissance Unit), để triệt tiêu hạ tầng cơ sở địch. Sau Kiến Hòa, ông Châu được đưa lên làm Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn Vũng Tàu. Nhưng vì không hợp và không thành công trong chức vụ này, ông Châu xin giải ngũ, rồi ứng cử dân biểu. Trong thời gian làm dân biểu, ông Châu liên lạc với CIA xin ngân quỹ để thành lập một lực lượng chánh trị (mục tiêu chánh trị của ông Châu là sẳn sàng đối thoại với thành phần không cộng sản của MTGPMN). Trong thời gian vận động, ông Châu có những tuyên bố ám chỉ ông được sự ủng hộ của CIA. ... Nghe những tuyên bố của ông Châu, với những bất thiện cảm về CIA, TTT quyết định “thấu cấy” ông Trần Ngọc Châu. TTT hỏi thẳng Trưởng Sở CIA Sài Gòn, Ted Shacley, là ông Châu có đang làm việc cho CIA hay không; và nếu chánh phủ bắt ông Châu về tội liên lạc với cộng sản, thì CIA có “vấn đề” gì không. Không thể giữ ông Châu và để mất lòng TTT, Ted Shackley trả lời TTT có toàn quyền đối xử với ông Châu.

Cũng trong năm 1969, CIA được dịp “trả miếng” lại TTT qua vụ Huỳnh Văn Trọng và Vũ Ngọc Nhạ. Cuối năm năm 1968 đầu năm 1969, CIA khám phá một hệ thống tình báo cộng sản đang hoạt động ở Sài Gòn. Từ đó họ phăng ra hai ông Trọng và Nhạ đang liên lạc và cung cấp tin tức cho cộng sản. Trưởng Sở CIA Ted Shackley thông báo cho TTT sẽ bắt giữ trọn ổ. Trong sự bàng hoàng, TTT yêu cầu CIA bắt giữ và giải quyết chuyện đó một cách kín đáo — vì nếu làm lớn chuyện, ông sẽ mắc cỡ với dân chúng là đã “nuôi ông tay áo” ngay tại trong Dinh Tổng Thống. Nhưng CIA không đồng đồng ý. Họ nói phải hành động theo ý họ và bắt trọn ổ, rồi đến đâu hay đến đó. Kế quả như chúng ta đã thấy, hơn 42 người liên hệ trong ổ gián điệp bị kết tội trước Tòa Án Quân Sự.

Dù với tất cả sự nghi ngờ và lo sợ về thái độ của người Mỹ, TTT vẫn phải nhờ vào sự ủng hộ của người Mỹ để củng cố quyền lực và đạt được những mục tiêu mà ông muốn thấy. Ðầu năm 1968, trong cao điểm cuộc tấn công Tết Mậu Thân của Bắc Việt, uy thế và tín nhiệm của TTT xuống mức thấp nhất. Trong thời gian ông cần sự giúp đỡ của Hoa Kỳ — vừa chống cộng, vừa chống thế lực của ông phó tổng thống. Ðược dịp đối thoại với TTT, CIA đã tài trợ một ngân khoảng khá lớn (khoảng 100 ngàn mỹ kim một tháng, trong thời gian 18 tháng) để ông TTT mua chuộc các đảng phái đối lập, và gây ảnh hưởng chính trị ở Quốc Hội.

Từ năm 1970 trở đi, báo cáo về TTT chứa đụng nhiều dự đoán lạc quan với nhiều tĩnh từ tốt đẹp. Nhưng kinh nghiệm cho chúng ta thấy, người Mỹ chỉ làm bạn khi họ cần người bạn. Nếu sự thực tế đòi hỏi phải bỏ người “bạn,” phải thay đổi, thì họ phải quyết định theo tinh thần “pragmatism” của người Mỹ. Trong hai tháng cuối cùng năm 1972, TTT, sau khi nói thẳng vào mặt Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Henry Kissinger, là “Tại sao tôi phải tin ông?” Và, “Một tên Việt Cộng giao liên địa phương còn biết nhiều về những chi tiết thương lượng ở Ba Lê hơn tôi,” thì Hoa Kỳ đã quyết định kết thúc liên hệ của họ ở Việt Nam . Ông Thiệu tin vào những lời hứa cá nhân của Tổng Thống Richard Nixon khi ký Hiệp Ðịnh Ba Lê, không phải vì ông tin vị tổng thống Hoa Kỳ: Ông tin vì phải tin; vì không còn chọn lựa nào khác. Ông bị hăm dọa để tin vào người Mỹ. Ði kèm với những lá thư vừa khẩn khoản vừa hứa hẹn của Tổng Thống Nixon, là những áp lực rất khéo léo của Hoa Kỳ nhắm vào những “liên lạc” chung quanh TTT. Những nhân sự thân cận của TTT “được” cho đọc những báo cáo, tường trình, rất bi quan của Hoa Kỳ về tình hình quân sự và kinh tế của Hoa Kỳ đối với VNCH trong tương lai gần. Rồi từ những liên lạc chung quanh TTT, Hoa Kỳ gia tăng áp lực hăm dọa. Với lối nói chuyện “cạn tàu ráo máng” của Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Henry Kissinger, dĩ nhiên TTT phải lo sợ và bối rối: lo sợ vì Hoa Kỳ có thể làm thật với những hăm dọa; bối rối vì VNCH không có nhiều thời giờ để xoay xở. Nhưng TTT vẫn giữ thái độ cứng rắn với Kissinger cho đến độ Kissinger thề sẽ không bao giờ trở lại Sài Gòn để nói chuyện nữa. Và VNCH — qua đại diện của TTT — cứng rắn với Hoa Kỳ cho đến khi không còn giải pháp nào khác. Nhân chứng và tài liệu cho biết, TTT đã đôi lần bật khóc trong lúc nói chuyện với Kissinger hay Ðại Sứ Bunker khi không giữ được sự tức giận — vì biết không thể làm gì được. Những lá thư riêng ông viết cho Tổng Thống Nixon là một bằng chứng cho thấy ông chỉ mong muốn Nixon giữ đúng lời hứa. Nhưng với nền luật pháp chặc chẻ của Hoa Kỳ, lời hứa riêng của một tổng thống không có giá trị gì.

Nhưng sự đau đớn và vô lý nhất — một vô lý không tưởng được — là sau một thời gian đôi bên cãi cọ, hăm dọa, nguyền rũa nhau và VNCH bị ép buộc phải ký hiệp ước chung với Hoa Kỳ. … Hiệp Ðịnh Ba lê 1973 vẫn không được chánh phủ Hoa Kỳ đưa ra Quốc Hộïi để phê chuẩn. Theo Hiến Pháp Mỹ, tổng thống có quyền ký bất cứ hiệp ước nào với bất cứ quốc gia nào. Nhưng hiệp ước chỉ giá trị như một trách nhiệm giữa Hoa Kỳ và quốc gia đối tượng; và của Hoa Kỳ đối với hiệp ước được ký. Trách nhiệm đưa hiệp ước ra Quốc Hội để được phê chuẩn là trách nhiệm của Hành Pháp (e.g.: Tổng Thống). Nhưng sử liệu cho thấy Tổng Thống Nixon đã không nhiệt tâm hay muốn cho Quốc Hội Hoa Kỳ thấy nội dung và những chi tiết của bản Hiệp Ðịnh Ba Lê 1973.

Sau này khi VNCH thất thủ, Quốc Hội nói họ không có trách nhiệm ví họ không biết gì về nội dung bản hiệp ước. Về phía Hành Pháp, ông tân Tổng Thống Gerald Ford thì lại càng có lý do hơn, khi nói ông hoàn toàn không biết gì về những hứa hẹn giữa chánh phủ trước (chánh phủ Nixon) và VNCH. Trong khi đó, những giới chức đã phục vụ và liên lạc với chánh phủ TTT ở Sài Gòn thì chỉ biết … chữi đổng về chánh phủ mình. Nhưng tất cả những đổ thừa không còn thành vấn đề nữa: VNCH đã thất thủ. Kissinger và Nixon đã cố gắng giữ kín và bưng bít những chi tiết thương lượng với Hà Nội. Tài liệu giải mật của CIA cho thấy Kissinger gần như là độc tôn trong quyền hạn đại diện cho Nixon trong những thương lượng với VNCH và Bắc Việt. Tháng 8-1972, trước mặt Ðại Sứ Bunker, Kissinger ra lệnh cho Trưởng Sở CIA Sài Gòn, Thomas Pogar, không được tiết lộ về CIA Lang Ley những chi tiết về cuộc thương nghị mà CIA Sài Gòn biết được qua liên lạc họ có bên trong nhân sự MTGPMN. Câu nói của TTT “Một tên Việt Cộng giao liên địa phương còn biết nhiều về những chi tiết thương lượng ở Ba Lê hơn tôi,” có thể áp dụng luôn với các thẩm quyền Mỹ trong trường hợp này.

TTT không tin người Mỹ — hay cá nhân Tổng Thống Nixon — nhưng phải đi theo kế hoạch sau cùng với họ vì ông không còn chọn lựa nào thích nghi hơn. Những thẩm quyền như Ðại Tướng Abrams; Trưởng Sở CIA Sài Gòn Polgar; Ðại Sứ Bunker … đều kết luận Hoa Kỳ đã phản bội VNCH. Nhưng những nhân vật này phải thú nhận, chính họ cũng không tiên đoán được những gì đã xảy ra. Dưới mắt một sử gia hiện đại — đồng thời là cựu nhân viên CIA cao cấp — TTT đáng được ca ngợi khi ông đã làm tất cả những gì ông có thể làm được trong giai đoạn đó, trong hoàn cảnh đó.

Liên Hệ Với Các Tướng Lãnh VNCH

Một số tác giả Mỹ và Việt dùng tỉnh từ “khôn vặt” cho TTT. Khảo sát cuộc đời TTT, người viết không nghĩ TTT chỉ khôn vặt. Sự khôn ngoan của TTT cao hơn khôn vặt nhiều. Chỉ bảy năm sau ngày ra trường (1949-1956) ông đã trở thành chỉ huy trưởng một trường đào tạo sĩ quan (Võ Bị Liên Quân Ðà Lạt). Với không hơn 18 năm quân vụ (tính đến ngày ông trở thành tổng thống), và tổng cộng 15 tháng thụ huấn quân sự (tổng cộng thời gian ở Võ Bị Huế; trường Coetquidan, Pháp; Tham Mưu Chỉ Huy, Hà Nội …), TTT phải là một người khôn hơn “khôn vặt” khi ông loại trừ những đối thủ chính trị và quân sự, để nắm quyền lãnh đạo quốc gia. Nhìn qua sự nghiệp chính trị của cố TTT, chúng ta thấy TTT có những đức tín cần thiết để “biết” mà sống.

Ít tuyên bố ngoài công cộng và kín đáo với những ý nghĩ hay kế hoạch, TTT có được tánh tốt cần thiết cho những quân nhân làm chánh trị trong bốn năm xáo trộn 1964-1967. Từ năm 1964 — sau khi tướng Nguyễn Khánh “chỉnh lý” và chiếm quyền từ tướng Dương Văn Minh — cho đến tháng 7-1967, ông Thiệu chứng tỏ được sự khôn ngoan so với các tướng lãnh trên và dưới. Trong khi hầu hết các tướng lãnh đàn anh hoặc bị giải nhiệm, lưu đày, hay giam lỏng, ông Thiệu dần dần lấy được sự tín nhiệm của đa số quân nhân qua sự kiên nhẩn và mềm mỏng khi giao thiệp. Nếu ông Thiệu đã xử dụng những mánh khoé về ngoại giao và chính trị để trở thành tổng thống vào tháng 10-1967, thì những mánh khoé đó phải hiệu nghiệm cho sự sống còn của giới tướng lãnh chính trị trong bốn năm xáo trộn 1964-67.

Không nhiều thì ít, chắc chắn tướng Thiệu phải có ý kiến về số tướng lãnh bị lưu đày hay bị giải ngũ — và tất cả các vị tướng đó đều thâm niên hơn ông về cấp bậc (lên cấp tướng trước, sau). Vị tướng cuối cùng, Nguyễn Hữu Có, thâm niên cấp bậc cùng ngày với ông Thiệu (lên thiếu tướng ngày 2 tháng 11-1963), trong một chuyến công du ở Ðài Loan năm 1967, bị bỏ lại và sau đó cấm trở về nước (đến tháng 1-1970 được chính tổng thống Thiệu cho phép hồi hương). Cuộc bầu cử năm 1967 là một thí dụ về sự ngôn ngoan của ông Thiệu. Trong cuộc bầu cử đầu tiên của nền Ðệ Nhị Cộng Hòa, tháng 10-1967, cả hai ông Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia (Thiệu) và Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (Kỳ) đều muốn ứng cử tổng thống không ai chịu ứng cử như phó tổng thống. Cả quyết liệt đến độ tuyên bố sẽ tách ra đứng riêng liên danh tổng thống. Nhưng Hội Ðồng Tướng Lãnh không muốn thấy sự chia rẽ giữa hai người lãnh đạo quân đội. Và nếu ứng cử riêng liên danh, chưa chắc họ thắng được những liên danh dân sự. Ðầu tháng 7-1967, sau hơn 48 tiếng đồng hồ nghị luận giữa các tướng lãnh trong Hội Ðồng Quân Lực, hội đồng đề nghị hai người sẽ đứng chung liên danh: ông Thiệu, ứng cử tổng thống; ông Kỳ, phó tổng thống. Nhưng để đền bù lại, ông Kỳ sẽ có toàn quyền bổ nhiệm Thủ Tướng và các Tổng Bộ Trưởng của nội các; cũng như các tư lệnh quân sự trọng yếu. Ông Thiệu đồng ý và ký tờ cam kết với các tướng lãnh. Dưới mắt mọi người qua, với những điều kiện đó, ông Thiệu sẽ trở thành một tổng thống bù nhìn không thực lực. Nhưng nếu nhìn xa hơn, chúng ta thấy sự khôn ngoan của ông Thiệu: Chiếu theo Hiến Pháp, tổng thống lúc nào cũng có toàn quyền; hứa với nhau bằng miệng hay ký giấy cam kết không thay đổi được quy định của hiến pháp. Hơn nữa, với tánh tình rất bốc đồng, trong tương lai ông Kỳ sẽ mất đi nhiều đồng minh trong quân đội. Với suy luận đó, ông Thiệu tạm thời chịu “nhường,” và kiên nhẩn chờ thế lực của phía ông Kỳ suy tàn.

Triệt tiêu được thế lực của ông Kỳ, nhưng từ năm 1969 trở đi, TTT dấp phải một lỗi lầm về liên hệ trong hệ thống quân giai, về chiến lược và chiến thuật, khiến các sĩ quan tuớng lãnh không còn kính trọng ông như là một thủ lãnh. Ðể củng cố thế lực, năm 1968 TTT triệu hồi Ðại Tướng Trần Thiện Khiêm về nước, bổ nhiệm làm phó thủ tướng kiêm tổng trưởng nội vụ, rồi thủ tướng kiêm tổng trưởng quốc phòng sau khi Thủ Tướng Trần Văn Hương từ chức. Cùng năm, ông đưa tướng Ðỗ Cao Trí về làm Tư Lệnh Vùng III. Tháng 7-1970 ông ban hành một sắc lệnh, thay đổi cơ cấu quân sự trong tương quan giữa Bộ Tổng Tham Mưu và Quân Ðoàn/Quân Khu. Nói một cách khác, đến cuối năm 1970, các tướng lãnh đã “vào hàng” theo lệnh TTT.

Nhưng để bảo vệ quyền lực và phòng hờ những biến động có thể xảy ra, TTT tập trung quyền lực trong tay — về hành chánh cũng như về quân sự — hành động này đã gây những phẩn nộ ngấm ngầm trong giới quân đội. Sự lo sợ đảo chánh khiến cho TTT giữ lại một số tướng lãnh lẽ ra ông phải cho họ giải ngũ từ lâu. Cũng vì sợ đảo chánh, ông có những liên hệ với một số tướng lãnh mà qua sự quan sát bên ngoài, không hợp với quân phong, quân kỷ. Rất nhiều thí dụ cho thấy TTT bất cấn hệ thống quân giai và chỉ huy quân đội thẳng từ Dinh Ðộc Lập: Trong cao điểm của cuộc hành quân Lam Sơn 719, Trung Tướng Lãm xin được từ chức vì ông không đủ quyền lực và sự ủng hộ của TTT để ra lệnh cho hai tướng Dư Quốc Ðống và Lê Nguyên Khang. Cũng trong buổi họp đó, tướng Viên một lần nữa xin từ chức. Nhưng TTT không hành động. Không phải TTT có “vấn đề” khi cho hai vị tướng này giải ngũ; nhưng ông thấy khó tìm những sĩ quan khác trung thành với ông, để thay vào chổ của hai vị tướng này. Một thí dụ khác là khi ông ra quân lệnh bắt giữ Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai trong khi Quảng Trị thất thủ tháng 5-1972. Thay vì chỉ cần “đề nghị” với Tổng Tham Mưu Trưởng, hay Tư Lệnh Vùng truy tố tướng Giai theo đúng tinh thần của hệ thống quân giai, ông Thiệu đích thân ra quân lệnh từ Phủ Tổng Thống (xem phóng ảnh 5-1). Lối xử dụng quyền hạn như vậy gây nhiều bất mãn trong quân đội — một tổ chức chỉ trường tồn trong hệ thống quân giai nghiêm ngặc. Trong hai năm sau cùng của VNCH, quyền chỉ huy quân đội càng lúc càng bị thu gọn vào Dinh Ðộc Lập. Quân đội VNCH bị thất thế trước lối chống cộng mãnh liệt và quyết tâm của TTT: ông khăng khăng đòi hỏi quân đội — một quân đội càng ngày càng yếu vì thiếu viện trợ — phải triệt để bảo vệ Chủ Trương Bốn Không mà ông đã đề ra vài năm trước. Một không trong bốn không này là “không nhượng đất” cho cộng sản. Nhưng với số quân viện càng ngày càng ít hơn, khả năng cơ động của quân lực không còn nữa. Phí tổn để bảo vệ những tiền đồn ở xa trở nên quá tốn kém. Nhưng tổng thống Thiệu vẫn quyết liệt với chủ trương không nhượng đất — dù những phần đất không có một lợi ích gì về chiến thuật hay chiến lược. Khi VNCH mất Phước Long vào cuối năm 1974, tổng thống Thiệu có thay đổi đôi chút chủ trương không nhượng đất của ông. Nhưng đến lúc đó thì quá trể. Tháng 3-1975, sau khi CSVN chiếm Ban Mê Thuột, chỉ trong ba tuần tổng thống Thiệu đơn thân quyết định một số kế hoạch quân sự chiến lược vô cùng tai hại, để đưa đến sự thất thủ hoàn toàn của VNCH hơn một tháng sau. Sau khi Ðà Nẵng thất thủ vào cuối tháng 3, và ngay ngày ba sư đoàn CSBV đánh vào Xuân Lộc, Ðại Tướng Viên có làm một phiếu đệ trình lên TTT, xin phép thành lập một Quân Ðoàn Dã Chiến, với thẩm quyền điều khiển hai quân chủng Không Quân và Hải Quân. Người viết không tìm được sử liệu cho biết phản ứng của TTT về phiếu đệ trình của tướng Viên. Nhưng đến ngày 12 tháng 4 mà tướng Viên mới đề nghị như vậy thì quá trễ. Ðiều này cho chúng ta thấy: (a) Bộ Tổng Tham Mưu VNCH không có thẩm quyền như danh xưng, và (b) TTT thật sự điều khiển Quân Lực VNCH thẳng từ quyền lực tổng thống, bất chấp hệ thống quân giai. Một trong hai — hay cả hai — sự kiện đó có thể là những yếu tố đưa đến sự thất thủ của VNCH.

Người viết xử dụng một số báo cáo về TTT sau đây: Central Intelligence Agency. Office of Central Reference, Biographic Register: Chairman, National Directory Committee (24 June, 1965/ declassified 11-20-1986); Defense Intelligence Agency. Biographic Data: President Nguyen Van Thieu (July 1968/ declassified 8-2-1999); Ambassy SAIGON: Some Aspects of Personal Relations Among Senior RVAF Officers (August 15, 1971; declassified 8-20-2009). Người viết xin cảm tạ bạn Jay Veith — một chuyên viên về sử liệu chiến tranh Việt Nam và cũng là một tác giả — đã cung cấp tài liệu giải mật mới nhất về cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu mà người viết đã trích trong bày. “Cáo già,” “khôn vặt” là từ nguyên thủy dùng trong báo cáo tháng 8-1971.

Thomas L.. Ahern, Jr., CIA and the Generals: Covert Support to Military Government in South Vietnam (Center for the Study of Intelligence, Central Intelligence Agency, 2009). Ðây là tập tài liệu tối mật, viết sâu rộng về liên hệ của Hoa Kỳ với các thẩm quyền VNCH.

Ðại sứ Bunker, từ tháng 5-1967 đến tháng 5-1973, mỗi tuần viết một báo cáo về cho tổng thống Lyndon Johnson, và sau đó là Richard Nixon. Những báo cáo này — trừ đi một số vẫn chưa được giải mật — nằm trong bộ sách ba quyển, Douglas Pike, The Bunker Papers: Report to the President from Vietnam , 1967-1973 (University of California, Berkeley, 1990). Ðại sứ Bunker có nhiều ý kiến cá nhân về hai ông Thiệu, Kỳ, trong báo cáo. Trong 96 báo cáo hàng tuần người đọc thấy Ðại Sứ Bunker dần dần thay đổi ý kiến của ông về TTT: Từ những chỉ trích gay gắc ở những báo cáo đầu — mà trong dó có những tỉnh từ chỉ ông Thiệu như chơi xấu, tiểu nhân, không tôn trọng luật công bằng — nhưng đến giữa năm 1969, ông Bunker từ từ thay đổi nhận xét của ông về TTT, báo cáo viết với nhiều lời khen ngợi và tán tụng. Ngược lại, với sự trầm tỉnh hiếm có của một nhà ngoại giao, Ðại Sứ Bunker đã chinh phục được TTT. Giới thẩm quyền Hoa Kỳ ở Sài Gòn nhận xét là, chỉ có Bunker mới tuyết phục được TTT trong những giai đọan khó khăn giữa liên hệ Mỹ-Việt.

Central Intelligence Agency, Office of Current Intelligence, 28 August 1963, Subject: Cast of Characters in South Vietnam . McGeorge Bundy là người thuyết trình cho Tổng Thống Kennedy về những nhân vật chống và ủng hộ Tổng Thống Diệm đương thời.
Ðại Tá Thiệu được thăng cấp thiếu tướng một ngày sau khi đảo chánh thánh công. Theo hồi ký của Trung Tướng Trần Văn Ðôn, Việt Nam Nhân Chứng, ngày 2 tháng 11-1963, khi đến trình diện tướng Ðôn, ông Thiệu móc trong túi ra một cặp sao thiếu tướng và đưa cho Ông Ðôn. Ông Ðôn viết trong sách là ông ngạc nhiên khi thấy đại tá Thiệu có sẳn cặp sao trong túi. Ðại Tá Thiệu là một trong hai đại tá duy nhất được thăng tướng ngay sau ngày đảo chánh. Người kia là Ðại Tá Nguyễn Hữu Có. Mười giờ sáng ngày 2 tháng 11-1963, Tư Lệnh MACV Paul Harkins báo cáo về Tổng Tham Mưu Trưởng Ban Tham mưu Liên Quân Maxwell Taylor, là hai Ðại Tá Có và Thiệu đã được thăng cấp tướng. Nhưng cũng trong một báo cáo khác từ Harkins gởi về Maxwell 6:36 chiều cùng ngày, danh sách lên tướng có thêm tên Ðại Tá Lâm Văn Phát. Báo cáo về thái độ của Ðại Tá Thiệu nằm trong Foreign Relations of the U.S, Vietnam , August-December 1963, các trang 48, 509, 534. Hơn ba tháng trước đó, trong một báo cáo ngày 16 tháng 8-1963 do CIA soạn thảo (mà tác giả là William E. Colby), ghi nhận về Ðại Tá Thiệu “… Công Giáo, gốc miền Trung, ủng hộ Ngô Ðình Nhu và có thể trung thành với chế độ.” Ðọc Foreign Relations of the U.S. , Viêtnam, January-August 1963, trang 580.

Chánh phủ VNCH phóng thích một số nhân sự quan trọng của MTGPMN đang bị Cảnh Sát Quốc Gia VNCH giam giữ, trong đó có vợ của Trần Bạch Ðằng (Mai Thị Vàng) và Trần Bửu Kiếm (Phạm Thị Yến), và một số cán bộ giao liên. Ban đầu VNCH phản đối, nhưng sau cùng vì áp lực cũng phải cộng tác với Hoa Kỳ trong kế hoạch liên lạc với MTGPNM. Từ tháng 2-1967 cho đến tháng -1968, VNCH thả bà Vàng và bà Yến, cộng thêm 10 cán bộ giao liên phía bên kia. Ðổi lại, phía MTGPMN chỉ thả ba tù binh Hoa Kỳ. Sau cùng, kế hoạch này cũng không đi đến đâu. Nhưng tài liệu cho thấy CIA đã xâm nhập được một số nhân sự của MTGPMN, nhưng không biết phải từ kế hoạch này không.
Xem Ahern, sđd, trang 83-88.
Ahern, sđd dẫn, trang 82.
Ahern, sđd, trang 38. CIA nói từ tháng 8 đến tháng 12-1965, CIA cung cấp cho Thích Trí Quang 2.000.00 đồng (tương đương 12.500 mỹ kim giá đương thời).


William E. Nelson, Chief, Far East Division, Memorandum for the DCI [Director, Central Intelligence] , “President Thieu's Comment on the CIA,” 5 February 1969. Trích theo Ahern, sđd, trang 87. Khuyến cáo của Nelson đúng được phân nửa vào năm 1975, khi TTT tung ra công luận những trao đổi bí mật giữa ông và Tổng Thống Richard Nixon.

Về những liên lạc giữa Nixon-Chennault- Thiệu; và khả năng nghe lén của FBI, CIA, và Nha Truyền Tin Mật Mã Quốc Gia (National Security Agency), đọc Bùi Diễm, In the Jaws of History; William Bundy, Tangled Web; và, Thomas Powers, The Man Who kept the Secrets: Richard Helms and the CIA. Sự kiện (nghe lén) này cũng được giải mật và đăng trong, Foreign Relations of the United States : Vietnam , September 1968-January 1969.
Theo lời ông Châu, và cũng theo hồ sơ của CIA, ông Châu có liên lạc với người em là Trần Ngọc Hiền, một cán bộ cộng sản, từ năm 1964. Xem Thomas Ahern, sđd, trang 93-94.

Kisinger đến Sài Gòn bàn thảo về đề nghị của Hà Nội lần đầu tiên vào ngày 17 tháng 8-1972. Sau lần nói chuyện khai mào này, TTT ngưng liên lạc với thẩm quyền Mỹ hơn một tháng sau. Trưởng Sở CIA Sài Gòn kể lại là Kissinger nó thẳng với TTT, nếu Hà Nội chấp nhận ngưng bắn và thả tất cả tù binh Mỹ, thì Hoa Kỳ sẽ chấp nhận đề nghị của Hà Nội, bất chấp diễn tiến quân sự đang xảy ra tại miền Nam. Hà nội xử dụng lá bài tù binh Mỹ rất hiệu nghiệm trong lúc lúc thương nghị và sau khi Hiệp Ðịnh được ký. Ðọc Ahern, sđd, trang 117-118.

Giai đoạn sau cùng của VNCH và liên hệ giữa TTT và Hoa Kỳ không phải là chủ đề của bài viết. Về giai đọan này, đọc Larry Berman, No Peace, No Honor, Nixon, Kissinger, and Betrayal in Vietnam . Về những bức thư cam kết và hứa hẹn của Tổng Thống Richard Nixon, đọc Nguyễn Tiến Hưng and Jerrold Schecter, The Palace File. Cố Vấn Tổng Thống Nguyễn Phú Ðức, trong hồi ký The Viet-Nam Peace Negotiations: Saigon’s Side of the Story, kể lại qua những lần đối thoại với Kississinger và Nixon, ông thấy thẩm quyền Mỹ muốn nhắn với TTT là Hoa Kỳ sẽ chấp thuận bản đề nghị của Hà Nội, và sẽ phê chuẩn hiệp định trước năm 1972. Và Hoa Kỳ sẽ đơn phương làm chuyện đó nếu VNCH không chịu hợp tác theo lịch trình do người Mỹ định. Chữ đơn phương (unilateral) được nhắn mạnh và lập lại nhiều lần.

Sau lần đến Sài Gòn tháng 8, Kissinger trở lại một lần nữa vào ngày 20 tháng 10-1972. Sau lần này Kissinger thề không trở lại vì bị “lật tẩy.” Sau Kissinger, người đại diện cho Nixon là Thiếu Tướng Alexander Haig (năm 1972, Haig vẫn còn mang cấp bậc thiếu tướng). Nhưng như là một quân nhân, Haig nói chuyện rất thẳng thắng. Ông thông báo cho TTT biết, ông đến đây không phải để thương lượng, vì ông không có thẩm quyền thương lượng. Ông đến đây để cho TTT biết Hoa Kỳ sẽ làm gì. Nếu VNCH không hợp tác theo đề nghị, thì liên hệ ngoại giao Hoa Kỳ sẽ gặp khó khăn và bị tổn thương, nhưng phía VNCH sẽ bị tử thương. Xin viết thêm một chút về tướng Haig: Năm 1975 Haig mang cấp bậc đại tướng và là Tư Lệnh NATO. Trước những cuộc tấn công ồ ạt của CSBV, Haig viết một lá thư cho Kissinger, đề nghị phải trả đũa ngay lập tức. … Ngăn chận CSBV “không phải để bảo vệ VNCH nhưng để bảo vệ sự vẹn toàn cho những hiệp ước mà Hoa Kỳ đã ký và sẽ ký trong tương lai.” Ðọc Nguyễn Phú Ðức, sđd, trang 364. Những lần trao đổi giữa TTT và Haig, được ghi lại trong hồi ký của tướng Haig, Inner Circles: How America Changed the World. A Memoirs.

Trưởng Sở CIA Thomas Pogar nói lên sự vô lý về hành vi của Hoa Kỳ (ít ra là qua hành vi của Kissinger) trong cuộc thương nghị: trong khi Hà Nội thông báo cho nhân sự ở hạ tầng cơ sở thấp nhất biết mọi chi tiết và diễn biến của cuộc thương lượng. Trong khi phía Hoa Kỳ thì chỉ có một số tối thiểu thẩm quyền tối cao mới biết được diễn tiến của cuộc thương lượng. Ðọc Ahern, sđd, trang 119. Lời hứa của Kissinger về số tiền bốn tỉ mỹ kim tái thiết hậu chiến cho miền Bắc, là một trong nhiều thí dụ về sự che dấu của Kissinger và Nixon với Quốc Hội Mỹ: Quốc Hội Mỹ biết được hứa hẹn đó qua một khám phá tình cờ và rất tức giận với những hứa hẹn không có thẩm quyền của quốc hội. Về chuyện này, đọc Randall B. Woods, Fulbright: A Biography.

Lewis Sorley, Reassessing ARVN (A Lecture Delivered at the Vietnam Center, Texas Tech University , 17 March 2006), trang 18
Trung Tướng Trần Văn Ðôn viết trong Việt Nam Nhân Chứng, lúc Trung Tướng Dương Văn Minh nhận định về tánh tình và tư cách chính trị của các quân nhân trong Hội Ðồng Quân Ðội Cách Mạng, ông chỉ vào Thiếu Tướng Thiệu và nói, “Ông này thì làm chánh trị và lãnh đạo được.” Ðối với Trung Tướng Ðôn, ông Minh phán, “Ông có quá nhiều tình cảm để làm chính trị.”
Nếu để ý, chúng ta thấy ông Thiệu lần lần “triệt tiêu” các sĩ quan thâm niên về quân vụ và cấp bậc hơn ông. Thiếu Tướng Huỳnh Văn Cao viết trong hồi ký (Một Kiếp Người, trang 172-73), là đích thân ông Thiệu cho ông 100.000 đồng và đề nghị ông giải ngũ, rồi Hội Ðồng Tướng Lãnh sẽ giúp ông ứng cử nghị sĩ. Sau tướng Cao là đến Thiếu Tướng Ðỗ Cao Trí (lên tướng tháng 7-1963). Trung Tướng Nguyễn Hữu Có (lên tướng cùng ngày với ông Thiệu) là người cuối cùng bị lưu đày. Tướng Có là một tiểu đoàn trưởng, ông Thiệu là trưởng Ban 3, khi hai người đóng chung ở Tiểu Khu Hưng Yên, 1952-53.
Xem phóng ảnh 4-2, cam kết giữa ông Thiệu và các tướng lãnh trong Hội Ðồng Quân Lực. Theo tướng Cao Văn Viên, người soạn thảo bản cam kết là Trung Tướng Nguyễn Ðức Thắng.
Sau khi đắc cử, luật sư Nguyễn Văn Lộc được bổ nhiệm thủ tướng như cam kết. Tuy nhiên, khi báo chí loan báo tổng thống và phó tổng thống sẽ xuất hiện chung trên hệ thống truyền thanh để “ra mắt” với dân chúng, một phụ tá của TTT cho biết, như là một tổng thống, ông Thiệu sẽ xuất hiện theo lịch trình ông muốn, và với những người ông muốn. Qua hành động đó, ông Thiệu không chỉ khôn vặt.

Ðại tướng Creighton Abrams, trong một buổi họp với các tướng lãnh của Bộ Tư Lệnh MACV vào tháng 1-1969, đã phàn nàn về tư cách của TTT khi ông thường xuyên mời tướng Ðỗ Cao Trí và Hoàng Xuân Lãm vào Dinh Ðộc Lập dùng cơm. Từ liên hệ thân mật đó, TTT trực tiếp ra lệnh, thông báo tin tức và huấn lệnh thẳng cho họ, bỏ qua hệ thống quân giai mà chính ông đã viết trong ra sắc lệnh. Tướng Abrams nói TTT đối xử như vậy thì “kẹt” cho tướng Cao Văn Viên (như là một Tổng Tham Mưu Trưởng), vì có những quân lệnh từ tổng thống trong khi tướng Viên chưa biết mà các tướng Tư Lệnh Vùng đã biết trước rồi. Ðọc Lewis Sorley, The Abrams Tapes. 1968-1972, trang, 106, 109, 114.

Quảng Trị thất thủ ngày 1 tháng 5-1972; TTT bổ nhiệm tướng Trưởng thay tướng Lãm ngày 3 tháng 5; TTT viết quân lệnh bắt tướng Giai ngày 12 tháng 5. Giọng văn trong quân lệnh của TTT rất bất công và thiên vị. Qua hai quân lệnh (phóng ảnh 5-1 và 6-1) chúng ta thấy TTT vẫn chưa chắc chắn với quyết định của ông:

Quân lệnh chỉ thị tái lập trật tự ở Vùng I đề tên người nhận là tướng Lãm, nhưng phía dưới trang sau cùng, TTT viết tay đề tên tướng Trưởng. Ðiều này cho thấy ngày 3 tháng 5, khi viết quân lệnh cho tướng Lãm, TTT đổi ý và bổ nhiệm tướng Trưởng. Nhưng ông không màn cho người thảo lại quân lệnh, mà dùng luôn bản văn, gởi cho tướng Trưởng. Nhưng tại sau buộc tội tướng Giai trong khi chính tướng Lãm là người phải chịu trách nhiệm. Vì sau hai tuần sau khi cộng sản tấn công vào Quảng Trị, tướng Lãm vẫn không nắm được tình hình, và cho đến ngày 13 tháng 4, ông mới từ Huế trên đường ra Quảng Trị để quan sát tình hình. Dọc đường ông chận một sĩ quan TQLC lại và yêu cầu người sĩ quan này tường trình cho ông diễn tiến cuộc tấn công đang xảy ra hơn 14 ngày rồi! Ðọc MX Ngô Văn Ðịnh, Chiến Thắng của Lữ Ðoàn 258/TQLC ở Quảng Trị, Tháng 4-1975, trong tuyển tập Hai Mươi Mốt Năm Chiến Trận của Binh Chủng TQLC Việt Nam . Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, trong The Easter Offensive of 1972, nói ông biết tướng Giai là một sĩ quan Nhảy Dù gan dạ và có khả năng chỉ huy. Và ông sẳn sàng nhận tướng Giai phục vụ lại với quân đoàn của ông. Ở đây người viết xin cảm ơn tiến sĩ Martin Loicano đã cung cấp một số tài liệu đến từ Bộ Tổng Tham Mưu VNCH và Phủ Tổng Thống, liên quan đến Huấn Lệnh bắt giữ Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai; và Huấn Lệnh cho Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm/ Ngô Quang Trưởng, tái lập trật tự ở Vùng I, sau khi Quảng Trị thất thủ.

Wednesday, October 7, 2009

Diễn Văn Trưởng Ban Tổ Chức


TƯỞNG NIỆM CỐ TỔNG THỐNG VIỆT NAM CỘNG HOÀ
NGUYỄN VĂN THIỆU

(Ngày 3 Tháng 10, 2009)

Kính thưa Tổng Thống Phu Nhân
Kính thưa quý vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo
Kính thưa các bậc trưởng thượng cùng các bạn trong hàng ngũ Quân Cán Chính Việt Nam Cộng Hoà
Kính thưa quý đồng hương
Kính thưa quý vị

Tôi vô cùng cảm kích trước sự hiện diện đông đủ và trang trọng của quý vị trong buổi lễ tưởng niệm cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu của nền Đệ Nhị Cộng Hoà do chúng tôi cùng một số anh em đứng ra tổ chức hôm nay. Tôi xin thành kính cám ơn và trang trọng kính chào quý vị.

Kính thưa quý vị,

Cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã vĩnh viễn ra đi từ 8 năm nay, và đây là lần đầu tiên chúng ta làm lễ tưởng niệm người ở tại đây, tại Thủ Đô của người Việt Nam Tỵ Nạn Cộng Sản ở Nam California. Năm này cũng là năm thứ 34 sau ngày Cộng Sản Bắc Việt xoá bỏ Hiệp Định Paris, xua quân tiến chiếm Miền Nam tự do, đặt ách toàn trị khắc nghiệt lên đầu cổ người dân Việt.
Ba mươi bốn năm dưới ách đô hộ của Cộng Sản Bắc Việt, và tám năm vắng bóng vị Tổng Thống mở đầu của nền Đệ Nhị Cộng Hoà, chắc cũng là thời gian tạm đủ để chúng ta nhìn lại quá khứ, tìm lại giá trị thật sự của một chế độ chính trị đúng và tốt, cũng như giá trị của người lãnh đạo hết sức xứng đáng của chế độ đúng và tốt đó.
Chế độ chính trị của nền Đệ Nhị Cộng Hoà tựa trên căn bản con người là một nhân vị, một sinh vật linh thiêng, có văn hoá, có giá trị cao cả hơn tất cả các giống vật trên đời này. Từ căn bản triết lý đó, Việt Nam Cộng Hoà công nhận quyền tự do, hạnh phúc, bình đẳng của mọi người. Hiến Pháp Việt Nam Đệ Nhị Cộng Hoà, thành hình ngày 1 tháng 4, 1967, phân định rõ ràng ba quyền Hành Pháp, Lập Pháp và Tư Pháp. Tổng Thống, đứng đầu Hành Pháp, cũng như các Nghị Sĩ và Dân Biểu của Thượng và Hạ Viện của khối Lập Pháp đều do dân bầu lên qua những cuộc đầu phiếu tự do, thể hiện đúng tinh thần dân chủ thường thấy ở các nước tự do tiến bộ trên thế giới. Đứng đầu Tư Pháp là Tối Cao Pháp Viện với chín vị Thẩm Phán được Hành Pháp và Lập Pháp lựa chọn trong số những thẩm phán có nhiều uy tín, hiểu biết và kinh nghiệm trong nghề. Nhờ ở chế độ chính trị thích hợp đó mà đất nước của chúng ta được phát triển mạnh mẽ mặc dù chúng ta phải đương đầu với sự tấn công phá hoại không ngừng leo thang của Cộng Sản Bắc Việt. Ở những nơi Việt Nam Cộng Hoà làm chủ tình thế, dân chúng được ấm no, hạnh phúc, được hưởng quyền tự do dân chủ như người dân các nước tân tiến. Các bộ Y Tế, Xã Hội, Lao Động có đủ phương tiện và nhân sự để phục vụ cho đồng bào. Chúng ta có nhiều bệnh viện, trang bị tối tân, có nhiều bác sĩ, dược sĩ, cán sự y tế có đầy đủ khả năng để bảo vệ sức khoẻ cho đồng bào, không phải cho người đi ra nước ngoài vận động xin xỏ đồng hương giúp đở cứu trợ như ta thường thấy ngày nay. Ở địa hạt giáo dục, Việt Nam Cộng Hoà đạt được nhiều thành quả vô cùng tốt đẹp dù là đang trong thời kỳ chiến tranh.

Trường Trung Học Đệ Nhị Cấp đã có ở mỗi quận, và Trung Học Tỉnh Hạt đã được xây dựng ỡ nhiều xã. Ở bậc đại học, ngoài các đại học nổi tiếng đã có ở Sài Gòn, Huế, Cần Thơ, Đà Lạt,, chúng ta đã có thêm các đại học cộng đồng Tiền Giang (Mỹ Tho) và Duyên Hải (Nha Trang) với hai đại học Quảng Đà và Qui Nhơn trên đà thành hình. Sự phát triển nhanh chóng của các trường Trung Tiểu học và Đại học đã đáp ứng nhu cầu học hỏi lớn lao của số người trong lứa tuổi đi học, đồng thời nâng cao phẩm chất của nền giáo dục quốc gia theo đúng tinh thần nhân bản, dân tộc và khai phóng được ghi trong Hiến Pháp. Về quân sự, quân lực Việt Nam Cộng Hoà hùng mạnh nhất Đông Nam Á, đã bao lần chiến thắng quân Cộng Sản Bắc Việt trên nhiều chiến trường Miền Nam. Nhưng tất cả những gì làm nên bức tranh tốt đẹp đó bổng bị bôi xoá đi một cách phủ phàng, phi nhân và phi lý, bởi những thế lực ngoài tầm tay kiểm soát của quân dân Miền Nam trong những tháng ngày đen tối nhất của lịch sử. Vì quyền lợi của dân Mỹ, của nước Mỹ, vì sự tồn tại của một ông Tổng Thống, Hoa Kỳ đã bán đứng đồng minh Việt Nam cho Cộng Sản Hà Nội và Trung Cộng. Lúc đầu dư luận cứ đổ tội cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và những cộng sự viên của ông đã làm mất nước. Nhưng theo thời gian, nhiều tài liệu lịch sử được phơi bày, nhiều hồ sơ được bạch hoá, và người ta đã thấy rõ, trước lập trường “bốn không” của ông, những ai đã buộc Tổng Thống VNCH phải ký Hiệp Định Paris, những ai đã quyết định chấm dứt viện trợ cho VNCH, những ai đã nhắm mắt trước sự xâm lấn của CS Bắc Việt, những ai đã gây áp lực mạnh mẽ buộc Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức? Câu trả lời bây giờ đã rõ. Cũng theo thời gian người ta càng thấy rõ bộ mặt thật của Cộng Sản Quốc Tế, Cộng Sản Trung Hoa và tay sai là Cộng Sản Hà Nội. “Đừng nghe những gì Cộng Sản nói, hãy nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm”, lời nói đó của cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu được người dân ghi nhớ và kiểm nghiệm.
Người ta thấy rõ hậu quả tai hại hết sức lớn lao của chế độ toàn trị sai lầm mà đảng Cộng Sản đã áp dụng ở Việt Nam từ Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẫn trước kia, đến Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu, Đỗ Mười gần đây, và Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng hiện giờ. Chưa bao giờ người dân vùng đông bằng sông Cửu Long đói rách, khổ sở như bây giờ. Cảnh nhiều học sinh bỏ học, cảnh nhiều cô gái bán mình cho người ngoại quốc, hay đi làm nghề bán trôn nuôi miệng chưa bao giờ tồi tệ đến như hiện nay.
Nông dân không còn ruộng để làm, công nhân bị chủ nhân toa rập với tổ chức chính quyền bốc lột đến xương tuỷ, ngư dân không còn ngư trường để làm ăn sinh sống, đồng bào thiểu số phải rời bỏ cao nguyên để đất đai lại cho Tàu làm chủ, cả một thảm trạng đau thương đổ xuống đầu người dân Việt. Đất đai dọc theo biên giới Việt Trung, Vịnh Bắc Việt, Biển Đông tất cả mất dần vào tay Trung Cộng, tình cảnh đất nước chúng ta chưa bao giờ nguy khốn bi đát như bây giờ. Tất cả đều chỉ vì Cộng Sản Bắc Việt, tay sai của Cộng Sản Trung Hoa, cúi đầu làm việc cho Tàu Cộng, thi hành một chánh sách cai trị hết sức ác nghiệt làm thiệt hại vô cùng cho tổ quốc và nhân dân.

Càng cảm nhận cái tệ hại của chế độ chính trị hiện tại của Cộng Sản BắcViệt, người ta càng thấy luyến tiếc chế độ Đệ Nhị Công Hoà. Chế độ cộng sản càng xấu xa thoái hoá bao nhiêu càng làm nổi bật cái tốt đẹp tiến bộ của chế độ Đệ Nhị Cộng Hoà bấy nhiêu. Một bên là độc tài, toàn trị, áp chế người dân, tước đoạt mọi quyền tự do của con người, biến con người thành công cụ phục vụ cho Đảng Cộng Sản, nhất là làm giàu kinh khủng cho các đảng viên cao cấp. Một bên là dân chủ thực sự với tinh thần nhân bản, lấy con người làm cứu cánh, tôn trọng quyền làm người, tôn trọng tự do, hạnh phúc của mọi người. Chế độ Đệ Nhị Cộng Hoà là như vậy, và đó là chế độ chính trị lý tưởng mà mọi người đều yêu thích và mong muốn.

Nghĩ đến Đệ Nhị Cộng Hoà là phải nghĩ đến những người đã sinh ra nó, và nhất là người lãnh đạo đã phát triển và bảo vệ nó trong suốt hai nhiệm kỳ Tổng Thống. Manh nha từ Đệ Nhất Cộng Hoà, chế độ Đệ Nhị Cộng Hoà được phát huy tiến bộ hơn bởi những nhà Lập Pháp nhiều kiến thức và kinh nghiệm trong tổ chức cơ cấu chính thể. Người quan trọng nhất, đắc cử Tổng Thống theo Hiến Pháp này, trong suốt hai nhiệm kỳ, từ 1967 đến 1975, đã kiên trì bảo vệ Hiến Pháp, tổ chức chính phủ theo cấu trúc của Hiến Pháp, phát triển đất nước theo đường hướng của Hiến Pháp, lãnh đạo dân quân cán chính đi đúng con đường tốt đẹp của chế độ Đệ Nhị Cộng Hoà là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Bảo vệ Hiến Pháp. là bảo vệ tự do hạnh phúc của người dân, bảo toàn lãnh thổ, và tất nhiên là phải mạnh dạn chống Cộng Sản đôc tài, chống sự đem đất nước và dân tộc Việt Nam làm đất nước và dân tộc bộ phận của Cộng Sản Quốc Tế, hay Cộng Sản Trung Quốc.


Kính thưa quý vị,

Tưởng niệm cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu hôm nay, chúng ta tưởng niệm vị Tổng Thống quan trọng của nền Đệ Nhị Cộng hoà, đã hết lòng hết sức trong suốt 8 năm trời, lèo lái con thuyền tự do, nhân bản của Việt Nam trong việc bảo vệ Hiến Pháp, phát triển đất nước theo con đường tiến bộ tốt đẹp của nhân loại.
Nhưng tưởng niệm không phải là chỉ để nhớ lại mà còn là để nhắc nhở chúng ta hãy kết hợp lại, củng cố chế độ chính trị tốt đẹp của chúng ta, gây ý thức về chế độ tốt đẹp đó trong các thế hệ về sau để khi có cơ hội trỡ về nước xây dựng lại chế độ tốt đẹp đó ở trong nước.
Chỉ có chế độ tốt đẹp đó mới có thể đem lại tự do, dân chủ, và hạnh phúc cho nhân dân, đưa nước nhà tới chổ tiến bộ, phồn thịnh, và mới có thể vận dụng được sức mạnh của toàn dân bảo vệ lãnh thổ chóng lại sự xâm lăng từ phương Bắc. Trong tinh thần đó chúng ta hãy cùng nguyện cầu hồn thiêng cố Tổng Thống linh ứng phù hộ cho đàn em vững vàng tiến bước trên con đường phục vụ cho đất nước và dân tộc.

Xin trân trọng cám ơn và kính chào quý vị.


Nguyễn Thanh Liêm, Ph.D.
Trưởng Ban Tổ Chức Lễ Húy Nhật VIII


Cựu Thứ Trưởng Bộ Văn Hoá Giáo Dục và Thanh Niên, Việt Nam Cộng Hoà,
Chủ Tịch hội Lăng Ông – Lê Văn Duyệt Foundation
Chủ Biên Tập San Nghiên Cứu Văn Hoá Đồng Nai Cửu Long